Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2024

Việt Nam bảo đảm quyền được chăm sóc y tế công cộng cho người dân

Quyền được chăm sóc y tế công cộng luôn được Việt Nam coi là một trong những quyền con người quan trọng, là cơ sở để thực hiện nhiều quyền con người khác. Việc thực hiện quyền được chăm sóc y tế công cộng cũng gắn liền với các quyền con người khác như: quyền sống, quyền về lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, bảo vệ đời tư, tiếp cận thông tin...



Quyền được hưởng an sinh xã hội đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận với tư cách là một quyền cơ bản của công dân tại Điều 34: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; đồng thời khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền hưởng an sinh xã hội: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”.

Quy định của Hiến pháp về quyền an sinh xã hội được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế, Luật An toàn vệ sinh lao động… Các luật trong lĩnh vực này bảo đảm tốt hơn các quyền của công dân được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng, các dịch vụ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội đối với các đối tượng chính sách, bảo vệ người tiêu dùng; giải quyết tốt hơn mối quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách xã hội nói chung, chính sách lao động và an sinh xã hội nói riêng theo nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội.

Chính phủ Việt Nam luôn đẩy mạnh thực hiện các chính sách an sinh xã hội; mở rộng diện đối tượng hưởng trợ cấp xã hội; các chương trình, đề án, chính sách trợ giúp xã hội được tiếp tục thực hiện hiệu quả, nhất là chính sách hỗ trợ, chăm lo đời sống người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Số người tham gia bảo hiểm y tế năm 2020 đạt 88,04 triệu người, chiếm 90,85% dân số. Năm 2021, số người tham gia bảo hiểm y tế là 88,837 triệu người, đạt tỷ lệ 91,01% dân số, vượt chỉ tiêu được giao tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng được khôi phục nhanh chóng. Hệ thống y tế dự phòng được củng cố theo hướng tự cường và thích ứng. Cuối năm 2023, bao phủ bảo hiểm y tế đã chiếm khoảng 94% dân số Việt Nam. Hệ thống an sinh xã hội và chính sách xã hội đã chứng tỏ tính ưu việt trong hỗ trợ người lao động trước khó khăn do đại dịch COVID-19.

Tính đến tháng 6/2023, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế đạt trung bình 91,9%; tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế hoặc có sự hỗ trợ của nhân viên y tế đạt trung bình 90,6%, tỷ lệ phụ nữ mang thai được thăm khám định kỳ ít nhất 4 lần trong thai kỳ đồng đạt trung bình 79,8%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân đồng đạt trung bình 15,8%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi đạt trung bình 21%.

Nâng cao năng lực cho cán bộ y tế, vận động nguồn lực cho triển khai nhân rộng các mô hình đã được chứng minh có hiệu quả, kinh nghiệm tốt trong chăm sóc sức khỏe trẻ em như mô hình: “Quỹ sơ sinh”, “Hỗ trợ cô đỡ thôn bản thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn tại cộng đồng”, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của 53 dân tộc thiểu số đã được nâng cao rõ rệt, năm 2015 là 69,9 tuổi; năm 2019 đạt 70,7 tuổi, rút ngắn đáng kể khoảng cách với tuổi thọ trung bình của cả nước.

Dù còn nhiều thách thức ở phía trước và nguồn lực dành cho an sinh xã hội còn hạn hẹp song Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực không ngừng để người dân được hưởng quyền chăm sóc y tế công cộng ngày một tốt hơn. Đó cũng chính là thành quả của Đổi mới, của phát triển kinh tế- xã hội.
Previous Post
Next Post

post written by:

0 nhận xét: