Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí

Thời gian qua, việc đảm bảo quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nói riêng ở nước ta đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng, được cộng đồng quốc tế công nhận. Tuy nhiên, bất chấp những thành quả ấy, các thế lực thù địch, phản động lại cố tình xuyên tạc, vu khống Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.


Các thế lực thù địch ra sức phê phán, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng. Các thế lực thù địch cho rằng: Nhà nước Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do internet, bao gồm bắt và truy tố tùy tiện những người chỉ trích chính quyền, kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật về hành vi phi bảng mang tính chất hình sự; “chính quyền, dưới chế độ cai trị độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, xiết chặt vòng kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm họp ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo”, hay “Chính phủ Việt Nam đã sử dụng lực lượng 47 với khoảng 10.000 chiến binh mạng nhằm chống lại cái mà Chính phủ Việt Nam gọi là lực lượng phản động trên mạng, tức những thông tin chỉ trích Chính phủ”.

Các đối tượng còn ngộ nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền tuyệt đối nhằm kích động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kế cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội, đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội. Thúc đẩy thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí để chống đối chế độ xã hội, thành lập một số tổ xuyên tạc Nhà nước bắt, bỏ tù nhà báo độc lập.

Thực tế cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình lờ đi thực tiễn chính trị - pháp lý trong quá trình thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở các quốc gia trên thế giới. Chúng nhấn mạnh, cường điệu quyền tự do một chiều mà lờ đi nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức cũng như các hậu quả xấu mà các hành vi đó gây ra cho xã hội. Chúng cố tình không đề cập quy định pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, về hướng dẫn thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách phù hợp. Đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí không chỉ là quyền cần phải bảo đảm mà còn là một động lực cho sự phát triển của xã hội. Sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội của Việt Nam thời gian qua cho thấy những cáo buộc Việt Nam không tôn trọng nhân quyền, thiếu tự do báo chí là vô căn cứ.

Việt Nam đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí

- Tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.



Trong đó, báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh té, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội.

Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và được thể chế hóa trong các bộ luật liên quan như Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018 và nhiều văn bản pháp luật khác.

Thực tế là Nhà nước Việt Nam chỉ xét xử những ai lấy danh nghĩa nhà báo nhưng có hành vi cố tình vi phạm pháp luật, lợi dụng “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, để tuyên truyền, tán phát tài liệu, các bài viết có nội dung xấu độc phá hoại an ninh quốc gia, gây mất an toàn xã hội, kích động bạo lực, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống, truyền thống, văn hóa, lịch sử đất nước, con người Việt Nam.

- Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc bản cho một nền dân chủ, nhưng không vì thể mà quyên tự do báo chí, tự do ngôn luận hay tự do thông tin không chế; các quyền này không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là quyền tuyệt đối, trong một số trường hợp nhất định, tự do ngôn luận có thể xung đột với các giá trị hay quyền chính đáng khác.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn luận của đông đảo người dân, điều này đặt ra nhiều vấn đề về xã hội và pháp lý, trong đó có việc quản lý thông tin trên không gian mạng hiện nay. Cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan rằng việc thực hiện các quyền tự do nói chung, quyền tự do ngôn luận nói riêng phải luôn gắn chặt với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chăm lo thực hiện tốt quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, trong đó có tự do ngôn luận, nhưng đi kèm với đó phải là kỷ luật, kỷ cương, pháp luật. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để công dân thực hiện quyền tự do, trong đó, có tự do ngôn luận nhưng với những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để làm những điều trái luật, làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác; gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc… thì phải nghiêm trị theo pháp luật.
Previous Post
Next Post

post written by:

0 nhận xét: