Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

 Ai sẽ là kẻ châm ngòi nổ Thế chiến 3?
Gần đây, một số chính trị gia phương Tây đã nói về khả năng xảy ra chiến tranh thế giới thứ ba, tuyên bố rằng họ thấy bóng đen của các cuộc xung đột đang bao trùm Eo biển Đài Loan, Bán đảo Triều Tiên, Biển Đông và thậm chí là toàn bộ Châu Á. Một số thậm chí còn đi xa hơn khi gọi Nga, Trung Quốc và Iran là "các cường quốc trục mới". Tờ báo Global Time lại công khai nhắm vào, quy kết Hoa Kỳ mới là căn nguyên bất ổn, xung đột, bùng nổ thế chiến.


Tờ báo này cho rằng, xuất phát từ các cơ sở: Các vấn đề trong nước ngày càng trầm trọng ở các nước phát triển như suy thoái kinh tế đang lan sang các nước khác. Quyền lực bá chủ bị ám ảnh bởi việc duy trì quyền tối cao của mình đang thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Các cuộc xung đột khu vực có nhiều khả năng vượt khỏi tầm kiểm soát, làm tăng nguy cơ xung đột giữa các khối. Chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và các hệ tư tưởng cực hữu ở phương Tây đang gia tăng. Các nước lớn thiếu sự tin tưởng và phối hợp lẫn nhau. Tất cả những điều này đã làm tăng thêm sự bất ổn và bất định của thế giới và làm suy yếu hiệu quả của hệ thống quốc tế. Khẳng định chính Hoa Kỳ, siêu cường duy nhất của thế giới, đã trở thành nguồn gốc của nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới khác theo nhiều cách.
Hoa Kỳ cố gắng định hình hệ thống của các quốc gia khác và định hình trật tự thế giới dựa trên các giá trị và hình ảnh của riêng mình, đồng thời chia thế giới thành các phe phái "dân chủ" và "phi dân chủ" bằng cách thúc đẩy câu chuyện "dân chủ đấu với chủ nghĩa độc tài".
Hoa Kỳ hành động chống lại toàn cầu hóa. Hoa Kỳ làm suy yếu các cơ chế hợp tác toàn cầu và lạm dụng quyền bá chủ tài chính của mình để xuất khẩu lạm phát, buộc các quốc gia khác, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi, phải trả giá. Hoa Kỳ hạn chế hợp tác thương mại và kinh tế, viện dẫn các tuyên bố chính trị và an ninh giả mạo, đồng thời thúc đẩy việc tách rời các nền kinh tế và xây dựng một sân nhỏ có hàng rào cao để định hình lại bối cảnh kinh tế và thương mại quốc tế vì lợi ích của riêng mình.
Hoa Kỳ tiếp tục đổ thêm dầu vào lửa trong các cuộc xung đột khu vực, trong khi tổ hợp công nghiệp-quân sự của nước này lại hưởng lợi lớn từ các cuộc chiến tranh. Bằng chứng rõ nhất là cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay. Trong khi người dân ở các khu vực xung đột đã mất mạng, Washington coi việc vũ trang cho Ukraine là tốt cho sự tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ và là một chiến thắng đôi bên cùng có lợi cần phải tiếp tục.
Để kiềm chế Trung Quốc, Hoa Kỳ cố gắng quyến rũ các đồng minh và đối tác của mình bằng khái niệm "răn đe tích hợp", thúc đẩy một "phiên bản NATO của Châu Á - Thái Bình Dương", hô vang câu chuyện sai lầm "Ukraine hôm nay, Đài Loan ngày mai", và thậm chí còn ra tín hiệu sẵn sàng sử dụng các tài sản quân sự của mình để chống đỡ một số người ở đảo Đài Loan.
Hòa bình lâu dài chỉ là ảo tưởng dưới chế độ bá quyền. Trong suốt hơn 240 năm lịch sử, bá chủ thế giới không chỉ tham chiến trong 16 năm. Lo lắng để bảo vệ sự thống trị toàn cầu của mình, những động thái mà họ có thể thực hiện, với chi tiêu quân sự vô song, nên được theo dõi hết sức cảnh giác.
Xem xét những yếu tố tiêu cực này, liệu Thế chiến thứ III có thực sự là điều không thể tránh khỏi không? Vâng, giống như mọi đám mây đều có một tia hy vọng, vẫn còn nhiều yếu tố tích cực quan trọng có thể giúp ngăn chặn chiến tranh bùng nổ.
Sức mạnh cho hòa bình và phát triển tiếp tục tăng lên. Xu hướng hướng tới một thế giới đa cực và toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra mối liên kết chặt chẽ hơn giữa các quốc gia và nâng cao ý thức của mọi người về cuộc sống trong một cộng đồng có chung tương lai. Điều này sẽ giúp ngăn chặn một cuộc chiến tranh toàn cầu.
Một tình cảm phản chiến vẫn còn mạnh mẽ. Albert Einstein đã từng nói, "Tôi không biết Thế chiến thứ III sẽ được tiến hành bằng vũ khí gì, nhưng Thế chiến thứ IV sẽ được tiến hành bằng gậy gộc và đá." Hai cuộc chiến tranh thế giới trước cho chúng ta biết rằng chiến tranh không phải là cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp và thế giới không thể chịu đựng thêm bất kỳ tai họa nào từ một cuộc chiến tranh toàn diện khác. Thế giới càng hỗn loạn, con người càng mong muốn sự ổn định.
Cơ chế hòa bình quốc tế đã được củng cố. Liên Hợp Quốc đã là trụ cột của hệ thống quản trị toàn cầu trong nhiều thập kỷ qua. Bất chấp những tiếng nói nghi ngờ thỉnh thoảng trong những năm gần đây, không thể phủ nhận rằng Liên Hợp Quốc đã đóng vai trò tích cực trong việc duy trì an ninh quốc tế, thúc đẩy cắt giảm vũ khí và giải quyết các thách thức toàn cầu.
Hoa Kỳ lo ngại về chi phí của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Vũ khí hạt nhân đã thay đổi sâu sắc bản chất của chiến tranh. Theo sự răn đe hạt nhân, Hoa Kỳ có xu hướng phát động "chiến tranh ủy nhiệm" hoặc kích động các cuộc xung đột khu vực, cho phép họ tiếp tục bán vũ khí cho và chiếm đoạt tài sản từ các bên liên quan.
Sự phát triển của Trung Quốc là động lực thúc đẩy lực lượng toàn cầu vì hòa bình. Cam kết phát triển hòa bình, Trung Quốc đang mở ra con đường trỗi dậy hòa bình khác biệt với quỹ đạo của các cường quốc truyền thống. Họ đã đưa Năm nguyên tắc chung sống hòa bình vào Hiến pháp của đất nước như một nền tảng cho chính sách đối ngoại hòa bình độc lập của mình và đã tích cực thúc đẩy các cuộc đàm phán vì hòa bình như một cách để giải quyết xung đột và tranh chấp.
Con người một lần nữa đang đứng trước ngã ba đường lịch sử. Những lựa chọn chúng ta đưa ra hôm nay sẽ định hình thế giới ngày mai. Khi chúng ta vượt qua thời kỳ hỗn loạn hiện tại, điều bắt buộc là chúng ta phải ghi nhớ những bài học trong quá khứ và đảm bảo lịch sử sẽ không lặp lại.
 Trung Đông bên bờ vực thẳm!
Trong những tuần gần đây, tình hình ở Trung Đông tiếp tục leo thang, đặc biệt là Lebanon phải hứng chịu những gì được coi là cuộc tấn công quân sự "chết chóc và dữ dội nhất" trong nhiều thập kỷ. Đầu tiên, hàng nghìn thiết bị liên lạc trong Lebanon đã bị kích nổ từ xa cùng một lúc, sau đó là nhiều đợt không kích quy mô lớn của Israel vào Syria và miền nam và miền đông Lebanon. Đầu tháng này, Israel đã phát động một cuộc tấn công trên bộ vào Lebanon, trong khi các mục tiêu quân sự và an ninh của chính họ cũng bị tấn công bằng tên lửa quy mô lớn từ Iran. Một mặt, một cuộc chiến tranh toàn diện có vẻ sắp xảy ra, mặt khác, thảm họa nhân đạo đang xấu đi với tốc độ đáng báo động. Tương lai của Trung Đông đang trở thành một thử thách nghiêm trọng đối với tất cả các bên liên quan đến cuộc xung đột, cũng như cộng đồng quốc tế.



Cả Lebanon và toàn bộ Trung Đông đều không nên trở thành "địa ngục trần gian" chìm trong biển lửa chiến tranh. "Hình phạt tập thể" và các cuộc tấn công bừa bãi nhắm vào dân thường phải được chấm dứt ngay lập tức. Tính đến thời điểm hiện tại, 2 triệu cư dân Gaza vẫn đang phải vật lộn để sinh tồn dưới sự phong tỏa và ném bom, và Lebanon không được trở thành Gaza tiếp theo. Kể từ cuối tháng 9, người dân từ một phần tư lãnh thổ Lebanon đã phải tuân theo lệnh di dời của quân đội Israel, với hơn 600.000 người phải di dời trong nước và hơn 300.000 người chạy trốn khỏi đất nước. Kể từ tháng 10 năm ngoái, cuộc xung đột Lebanon-Israel đã cướp đi sinh mạng của 2.141 người và làm bị thương 10.099 người ở Lebanon. Đằng sau những con số này là vô số gia đình tan vỡ và nỗi đau khổ to lớn của con người. Một thảm kịch như vậy không nên xảy ra trong một xã hội văn minh vào thế kỷ 21.
Khi chúng ta đạt đến mốc một năm kể từ khi bùng nổ vòng mới của cuộc xung đột Palestine-Israel, thật đau lòng khi thấy vết thương đang rỉ máu của Trung Đông vẫn chưa lành. Thay vào đó, nhiều quốc gia đã tham gia vào cuộc chiến và cường độ của cuộc xung đột tiếp tục leo thang. Để bảo vệ các đồng minh của mình, Hoa Kỳ đã mở rộng sự hiện diện quân sự của mình ở Trung Đông và giúp Israel đánh chặn tên lửa bắn từ Iran. Trong khi đó, không có cuộc đối đầu quân sự nào làm tăng cảm giác an toàn cho bất kỳ quốc gia nào ở Trung Đông. Rõ ràng là nhiều thập kỷ can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Trung Đông không làm cho Israel an toàn hơn. Ngược lại, những hành động này đã làm nảy sinh nhiều cuộc kháng cự vũ trang trong khu vực hơn, khiến môi trường an ninh của Israel thậm chí còn mong manh hơn. Thêm vào đó, xung đột và sự oán giận giữa các dân tộc và các phe phái tôn giáo ở Trung Đông đã trở nên sâu sắc hơn với chiến tranh leo thang.
Trung Đông, nơi bạo lực thống trị, giống như một chiếc xe không phanh, liên tục trên bờ vực lao xuống vực. Vụ nổ máy nhắn tin kinh hoàng đã gửi đi một lời cảnh báo ảm đạm theo cách cực đoan: sự kết hợp giữa lòng căm thù và chiến tranh công nghệ cao đang đẩy sự tàn bạo của xung đột hiện đại lên một tầm cao mới. Ngay lúc này, sự coi thường mạng sống và quyền con người ở Trung Đông đã đạt đến mức độ kinh hoàng. Không khí nồng nặc mùi máu và cảm giác sợ hãi tột độ, tất cả đều là lời nhắc nhở rõ ràng rằng chiến tranh không bao giờ là giải pháp đúng đắn. Nó sẽ chỉ mang lại đau khổ và thảm họa.
Cơ hội khôi phục hòa bình ở Trung Đông đang nhanh chóng khép lại, và ưu tiên cấp bách là phải ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu quân sự và hạ nhiệt tình hình. Vào ngày 9 tháng 10, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã có cuộc trò chuyện đầu tiên sau gần hai tháng với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, nhưng các cuộc tấn công của Israel vào nhiều khu vực ở Trung Đông vẫn tiếp diễn, với việc Israel thề sẽ trả đũa Iran theo cách "gây chết người, chính xác và bất ngờ". Trong khi Washington đã kêu gọi ngừng bắn bằng lời nói, họ đã cung cấp ít nhất 17,9 tỷ đô la hỗ trợ quân sự cho Israel trong năm qua, trên thực tế đã trở thành động lực thúc đẩy "chu kỳ bạo lực" đang diễn ra trong khu vực.
Cuối cùng, nền tảng cho an ninh lâu dài trên khắp Trung Đông nằm ở khả năng của Israel và Palestine đạt được sự chung sống hòa bình. "Giải pháp hai nhà nước" đưa ra lộ trình để cả hai bên chung sống hòa bình trên cơ sở công nhận lẫn nhau và an ninh. Giải pháp này nên được coi là chìa khóa để phá vỡ lời nguyền của cuộc xung đột kéo dài và chu kỳ bạo lực trong khu vực, điều này xứng đáng được quan tâm nhiều hơn và thúc đẩy tích cực hơn. Hoạt động trung gian ngoại giao ở Trung Đông đòi hỏi sự chân thành và hợp tác từ mọi phía. Trong quá trình này, Liên Hợp Quốc, với tư cách là tổ chức trung tâm nhất để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, gánh vác trách nhiệm nặng nề là giải quyết hòa bình các cuộc khủng hoảng và phải đối mặt với những thách thức to lớn. Không được phép bị gạt ra ngoài lề.
Trong chiến tranh, không có người chiến thắng, chỉ có nạn nhân. Kéo Trung Đông trở lại từ bờ vực của một cuộc chiến tranh toàn diện, giảm căng thẳng, thực thi lệnh ngừng bắn, và ngăn ngừa thảm họa nhân đạo không chỉ là sự đồng thuận quốc tế mà còn là trách nhiệm chung của cộng đồng toàn cầu.
Hy vọng tất cả các bên sẽ hành động vì lợi ích của hòa bình và ổn định khu vực, tiếp cận tình hình hiện tại với sự bình tĩnh, lý trí và trách nhiệm. Các cường quốc có ảnh hưởng, đặc biệt, nên đóng vai trò xây dựng trong quá trình này.

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

Không thể phủ mờ những nỗ lực trong bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam
Lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, trong đó xuyên tạc vấn đề bình đẳng giới là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động. Trong thời gian này, hướng tới ngày kỉ niệm ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, các luận điệu này lại được dịp “bung nở” trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng chống phá.


Đằng sau luận điệu sai trái, xuyên tạc

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền thông định kiến với Việt Nam đã đăng, phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, video cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về bình đẳng giới. Họ phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm bình đẳng giới, vu cáo Việt Nam không có bình đẳng giới, Việt Nam phân biệt đối xử với phụ nữ, quyền của phụ nữ Việt Nam “bị đối xử nghiêm trọng, bị bỏ rơi”. Họ rêu rao, dưới chế độ “đảng trị”, phụ nữ bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế và “Đảng chỉ đưa ra những con số mị dân, lừa bịp chị em”, cho rằng, bị phân biệt đối xử là “nỗi thống khổ của phụ nữ dưới chế độ đảng trị”! Đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc của những kẻ đội lốt dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam.

Tung ra những luận điệu xảo trá như vậy, mục đích của các thế lực thù địch nhằm gây ra sự phân tâm, hoài nghi của nhân dân, trong đó có một bộ phận phụ nữ về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề bình đẳng giới, công tác phụ nữ. Từ đó, họ cố gắng gieo rắc tâm lý mặc cảm, tự ti đối với phụ nữ, làm cho phụ nữ thiếu tin tưởng về vị trí, vai trò của mình đối với gia đình, cộng đồng xã hội. Tìm cách gieo rắc tư tưởng bị phân biệt, kỳ thị, làm giảm sự chung tay, cống hiến đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thậm chí gây tư tưởng chia rẽ giữa phụ nữ các vùng miền, phụ nữ giữa các thành phần, dân tộc.

Không những vậy, các thế lực thù địch còn ra sức cổ xúy, thúc đẩy việc hình thành các tổ chức, hội, nhóm đối lập do các đối tượng chống đối là phụ nữ cầm đầu hoặc có sự tham gia của phụ nữ như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội dân oan” … Những hội nhóm lấy danh nghĩa giúp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của nhân dân vào đóng góp xây dựng đất nước, kêu gọi quyền lợi cho phụ nữ nhưng thực chất đây là số hội nhóm có thái độ, hành động chống phá đất nước quyết liệt, được sự hậu thuẫn, hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, tổ chức, cá nhân phản động sống lưu vong ở nước ngoài. Số này núp dưới danh nghĩa, vỏ bọc “phản biện xã hội” để phản bội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội của Nhà nước cũng như tầm quan trọng của các tổ chức chính trị - xã hội, có những việc làm đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Quyền lợi của phụ nữ luôn được bảo đảm

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nam - nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Bình đẳng giới và trao quyền năng cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là một trong những mục tiêu chiến lược, lâu dài, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.

Về pháp lý, Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới được khẳng định trong Điều 26, Hiến pháp 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật từng bước cụ thể hóa Hiến pháp được hoàn thiện theo hướng bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa bệnh… Hệ thống chính sách, pháp luật nước ta đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, chúng ta đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế và các chương trình nghị sự lớn về quyền của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới.

Về chính trị, Việt Nam chủ trương khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy cơ quan công quyền. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đề cao, phát huy vai trò của phụ nữ như: Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ…

Về kinh tế, từ nhiều năm trước, Chính phủ ban hành nhiều nghị định ưu tiên hỗ trợ đối với phụ nữ như Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 về tiền lương, khẳng định quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong việc trả lương; Nghị định số 33/2003/NĐ-CP ngày 02/4/2003 của Chính phủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và cả với lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ… Mặt khác, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới ngày càng hiệu quả hơn, các chính sách liên quan đến vai trò, vị trí của nam và nữ đều được thực hiện bình đẳng như nhau.

Về xã hội, Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”; Đề án thúc đẩy phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, tăng thu nhập cũng như kết nối, mở rộng liên kết, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ cho phụ nữ và Quyết định số 938/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 – 2027, được Chính phủ ban hành ngày 30/6/2017… Các đề án này nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát huy vai trò chủ động của phụ nữ trong ứng phó và tham gia giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội, đề án hướng tới mục tiêu giảm thiểu những tác động tiêu cực, nâng cao chất lượng cuộc sống phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Những con số biết nói

Những năm qua, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ với một chiến lược rõ ràng, nhất quán và phù hợp với thực tiễn. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái.

Trên phương diện kinh tế, phụ nữ Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình, có cơ hội để mang lại thu nhập cao hơn. Điều đó góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thập kỷ qua. Số doanh nghiệp do nữ giới lãnh đạo, điều hành, quản lý thành công ngày càng tăng cho thấy sự phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ của phụ nữ, mặt khác khẳng định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.

Theo khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2021, cứ 4 doanh nghiệp tư nhân sẽ có 1 doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nữ giới đóng góp tới 40% của cải cho nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo chỉ số nữ doanh nhân Mastercard (MIWE) năm 2021 cho thấy, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam ở mức 26,5%, xếp thứ 9 trên 58 nền kinh tế được nghiên cứu về số lượng phụ nữ trong vai trò lãnh đạo.

Trong lĩnh vực chính trị, theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới. Hiện nay, trên tất cả các lĩnh vực đều có sự cống hiến của nữ giới, chất lượng, hiệu quả, uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ nữ cũng như vai trò của các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện bình đẳng giới.

Sau Đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cán bộ nữ tham gia cấp uỷ các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, tỷ lệ nữ ủy viên BCH Đảng bộ cấp tỉnh trung bình toàn quốc đạt 16%; có 61/63 tỉnh, thành phố có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Trong Quốc hội, số lượng đại biểu nữ nhiệm kỳ khóa XV là 30,26%, tăng 3,54% so với khoá XIV (26,72%). Kết quả bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 cũng ghi nhận sự tăng lên của các nữ đại biểu, trong đó tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 29% (so với 26,5% của nhiệm kỳ trước).

Đối với văn hóa, giáo dục, phụ nữ Việt Nam ngày càng phát huy vai trò không thể thiếu trong xây dựng văn hóa con người Việt Nam, văn hóa gia đình, nếp sống khu dân cư, tích cực tham gia bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, có những cống hiến to lớn trong đánh thức tiềm năng văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đặc biệt, trong giáo dục phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò có đầy đủ phẩm chất, năng lực trình độ để đảm nhận các vị trí quản lý, nhà giáo dục có trình độ học vấn cao.

Ông Jesper Morch, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đã đánh giá: “Việt Nam là nước dẫn đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương về các chỉ số về bình đẳng giới qua việc cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục tới các trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ và nam giới. Sự chênh lệnh về tỷ lệ nhập học giữa các em nữ và các em nam là rất thấp”.

Mặt khác, trong triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ luôn là một trong những ưu tiên. Việt Nam cũng đã cử các nữ sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Liên quan đến vấn đề này, Đại sứ vương quốc Anh, Gareth Ward trong năm đầu tiên làm đại sứ Anh tại Việt Nam (năm 2019) chia sẻ: “Tôi đã được gặp nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt trong nhiều lĩnh vực khác nhau… Tôi cũng đã gặp một nhóm nữ chiến sĩ thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, những người sẽ đại diện cho Việt Nam tham gia một trong những phái bộ gìn giữ hòa bình nguy hiểm nhất của Liên hợp quốc tại Nam Sudan, góp phần vào hòa bình, ổn định và an ninh toàn cầu”.

Những kết quả này là minh chứng rõ nét cho thành tựu nổi bật của việc bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện
Quyền được học tập là một trong những quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật Nhà nước ta quy định. Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó, đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên. Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng, mọi trẻ em không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Song vẫn còn nhiều vấn đề cần có sự quan tâm của cả xã hội, của mỗi gia đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiện cho trẻ em – những mầm non tương lai của đất nước được học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội.


Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn. Đặc trưng của gia đình nông thôn là lao động nông nghiệp, sản xuất nhỏ, kĩ thuật lạc hậu, chủ yếu nhờ vào sức lực cơ bắp và kinh nghiệm. Sự phân hóa trong xã hội nước ta cũng khá lớn dẫn đến những cách thức khác nhau trong việc thực hiện quyền của trẻ em trong đó có quyền được học tập.

Đặt trong bối cảnh, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, hòa nhập quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, gia đình Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của mình, trong đó có chức năng xã hội hóa trẻ em. Chính vì vậy trong Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28 tháng 6 năm 2000 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã yêu cầu: “Đề cao vai trò và trách nhiệm của gia đình, giúp đỡ và tạo điều kiện cần thiết để các gia đình thực hiện trách nhiệm đối với thế hệ trẻ, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển của trẻ em. Tôn trọng và bảo đảm cho trẻ em được thực hiện các quyền và bổn phận trước gia đình và xã hội”.

Hiện nay, trẻ em được đi học đúng độ tuổi chiếm tỉ lệ cao. Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về số học sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi như sau:

– Năm 1998-1999:chiếm 94, 8%

– Năm 2005-2006:chiếm 98, 8%

– Tháng 6/2006: 36 tỉnh, thành đạt chuẩn tiểu học đúng độ tuổi

Những con số trên đã cho thấy: quyền được học tập của trẻ em ngày càng được đảm bảo mà biểu hiện trước hết đến việc trẻ em được đi học đúng độ tuổi quy định. Tuy đó chỉ là con số bề ngoài, chưa phản ánh chất lượng bên trong nhưng nó chứng minh các gia đình hiện nay quan tâm đặc biệt đến việc học tập của trẻ em.

Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận thì vẫn còn những vướng mắc cần giải quyết, đó là các gia đình nông thôn chưa đủ điều kiện kinh tế, ý thức chưa cao trong việc đảm bảo quyền lợi trẻ; các gia đình thành thị bị chịu tác động mặt trái của kinh tế toàn cầu hóa dẫn đến bỏ bê con cái hay các hiện tượng tiêu cực ở trẻ,… Vì vậy, chúng ta cần có những điều chỉnh kịp thời, những biện pháp bảo đảm tốt nhất để giúp trẻ phát huy quyền của mình.

Gia đình có một chức năng vô cùng quan trọng trong việc nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục trẻ em thành con người có ích cho xã hội. Chúng ta cần có những biện pháp hỗ trợ tăng cường vai trò của gia đình trong việc thực hiện quyền chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em đặc biệt là trong thực hiện quyền được học tập của trẻ.